Hotline: +84 243 869 1980

Tin tức chung

Kỹ thuật chăn nuôi vịt, ngan 1 - 4 tuần tuổi

Cập nhật: 21/12/2019


Kiểm tra đàn vịt thường xuyên để đánh giá về sức khỏe Ảnh: Inuofebi

(Người Chăn Nuôi) - Những năm gần đây, một số giống mới có năng suất cao đã được nhập và phát triển tốt ở Việt Nam như ngan Pháp, vịt siêu thịt CV Super M, Star 53. Những giống này cần phải nghiên cứu, áp dụng những giải pháp kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Con giống, chuồng nuôi và trang thiết bị

Phải chọn những con khỏe mạnh, mắt tinh nhanh, bông lông, không khèo chân, hở rốn.

Chuồng trại làm bằng những vật liệu rẻ tiền như tranh tre, nứa, có thể làm chuồng nuôi nền hoặc nuôi trên sàn lưới hoặc sàn tre. Ở giai đoạn úm, diện tích chuồng trại không cần rộng nhưng đòi hỏi phải đảm bảo yêu cầu cao ráo, thoáng, kín không có gió lùa, giữ nhiệt tốt đặc biệt khi úm ở mùa đông, chống chuột tốt.

Chuẩn bị đầy đủ máng ăn, máng uống, thiết bị thắp sáng, sưởi ấm. Chuẩn bị các chất độn chuồng như trấu, rơm rạ băm nhỏ, phoi bào nhưng không được dùng phoi bào gỗ lim và xà cừ. Chuẩn bị vây ràng để quây.

Trước khi nhận giống về nuôi phải dọn sạch chuồng, nền chuồng, tường, lưới, quét vôi nền chuồng và xung quanh tường cao 0,8 - 1 m.

Sau khi khô cho răm bào, trấu, rơm hoặc rạ băm nhỏ làm độn chuồng và xông bằng formol + thuốc tím…

Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ sau đó ngâm vào dung dịch nước vôi trong hoặc formol 0,3 - 0,4 % rồi để khô. Trước khi đưa giống vào phải sưởi ấm chuồng trước.

Nhiệt độ

Ngan lai, vịt ở trong máy ấp nở với điều kiện nhiệt độ trên 370C, khi chuyển xuống chuồng nuôi để đảm bảo cho con giống khỏe mạnh nhiệt độ chuồng nuôi cho 1 - 3 ngày tuổi phải đạt 30 - 320C, từ ngày tuổi thứ 4 trở đi mỗi ngày giảm 10C cho tới khi đạt 20 - 250C.

Nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao trên đầu, khi ngan, vịt con đi lại bình thường và tản đều. Trung bình cứ 200 W cho 75 con ngan lai vịt và 140 con ngan, vịt cần 1 chụp sưởi. Ở những nơi không có điện cần sưởi ấm bằng đèn tọa đăng, nước nóng, bếp trấu, bếp than nhưng phải hạn chế khí CO2.

Ẩm độ không khí

Ẩm độ thích hợp cho ngan, vịt con là 60 - 70 %, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có khi lên tới 80 - 100 % nên rất nguy hiểm cho ngan, vịt con. Nền chuồng ướt làm cho vịt, ngan con cảm nhiễm bệnh dễ dàng, vì vậy vào những ngày thời tiết nóng, trời nồm cần phải dãn mật độ ngan, vịt; đồng thời cần phải đảo chất độn chuồng và cho thêm chất độn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan, vịt ấm chân và sạch lông.

Mật độ và độ lớn của đàn

Mật độ và độ lớn của đàn là hai yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu đàn nhỏ có thể tăng mật độ và ngược lại. Nuôi nhốt kết hợp chăn thả còn phụ thuộc vào bãi chăn thả, nuôi chăn thả từ 200 - 400 con là phù hợp nhất. Chuồng không sân chơi, từ 1 - 10 ngày tuổi là 32 con. Chuồng có sân chơi, từ 11 - 28 ngày tuổi là 18 con.

Chế độ chiếu sáng

Từ tuần thứ 1 - 2 thắp sáng cả ngày đêm, sau đó thời gian thắp sáng là 18 giờ/ngày. Cường độ ánh sáng trong giai đoạn này là: 1 - 10 ngày tuổi 3 W/m2; 11 - 28 ngày tuổi 1,5 W/m2. Trong thời gian này ban ngày sử dụng ánh sáng tự nhiên. Ở những nơi không có điện cần thắp sáng bằng đèn dầu đảm bảo đủ ánh sáng để ngan, vịt đi lại ăn, uống một cách bình thường, chống xô đàn và đè lên nhau gây tỷ lệ chết cao.

Lượng cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng. Lượng không khí trao đổi phải đảm bảo sạch, cho những khí thải của phân được đưa ra ngoài. Trong giai đoạn 1 - 14 ngày tuổi hạn chế gió thổi mạnh vào chuồng nuôi.

Cung cấp nước uống

Ngan, vịt là loại thủy cầm cần rất nhiều nước uống, đảm bảo nước phải trong sạch và thường xuyên. Ở tuần tuổi 1 không cho uống nước lạnh dưới 100C, tuần tuổi thứ 2 và 3 không cho uống nước lạnh dưới 60C và cũng cần hạn chế cho uống nước trên 250C. Nhu cầu nước uống trung bình:

1 - 7 ngày tuổi : 120 ml/con/ngày.

8 - 14 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.

15 - 28 ngày tuổi: 350 ml/con/ngày.

Nếu là nuôi chăn thả cho uống nước những nơi nước trong, sạch; ở nơi nhốt ngan, vịt ban đêm nên có máng nước cho ngan, vịt uống.

Thức ăn và nuôi dưỡng

Ngan, vịt sau khi nở khô lông cho ăn uống càng sớm càng tốt. Nếu cho ăn uống muộn dễ bị khô chân, cứng hàm, khiến tỷ lệ hao hụt tuần đầu rất cao hoặc ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng và phát triển.

Dùng thức hỗn hợp dạng viên, hoặc thức ăn đậm đặc trộn với cơm, hoặc dùng các đơn nguyên như tấm, ngô, gạo lật, thóc luộc, thóc, đỗ tương, khô đỗ tương, cám gạo, bột cá nhạt, bột máu, bột đầu tôm, vitamin, khoáng, hoặc dùng cơm, tấm, ngô, gạo lật, thóc luộc, thóc sống trộn với thức ăn đạm tươi như tôm, tép, cua, ốc, giun đất, don, dắt, rạm, bọ đỏ và các loại côn trùng khác… Không nên sử dụng khô dầu lạc trong khẩu phần ăn vì dễ bị nhiễm Aflatoxin, riêng ngô nên sử dụng không quá 30%. Nên sử dụng các loại thức ăn sẵn có ở địa phương để hỗn hợp thì giá thành hạ, kể cả các loại phụ phẩm như cám, bã bia, bã rượu, bã đậu… đều sử dụng cho ngan, vịt ăn được nhưng phải đảm bảo yêu cầu không ôi chua và không mốc. Thức ăn có thể nấu chín để tăng khả năng tiêu hóa. Chất lượng thức ăn phải đảm bảo đạt 20 - 22% đạm thô, năng lượng 2.800 - 2.900 Kcal.

Nguyễn Hà


Có thể bạn quan tâm

Những tỉ phú nông dân - Kỳ 6: Mô hình làm giàu đơn giản
Những tỉ phú nông dân - Kỳ 6: Mô hình làm giàu đơn giản
Những tỉ phú nông dân - Kỳ 6: Mô hình làm giàu đơn giản

Chí thú làm ăn và không lùi bước trước thất bại, nhiều nông dân chân chất đã trở thành những chủ trang trại thu nhập bạc tỉ mỗi năm, là ân nhân của nhiều “công nhân nông nghiệp”.

Các ông cử bỏ bằng về làm tỷ phú nông dân
Các ông cử bỏ bằng về làm tỷ phú nông dân
Các ông cử bỏ bằng về làm tỷ phú nông dân

Tốt nghiệp chuyên ngành Hóa, ĐH Công nghiệp TP.HCM, Võ Thành Ngân (sinh năm 1989) chuyển sang làm nông dân trồng cỏ kiếm 4 tỷ đồng mỗi năm.

Người nông dân làm kinh tế giỏi từ mô hình chăn nuôi hộ gia đình
Người nông dân làm kinh tế giỏi từ mô hình chăn nuôi hộ gia đình
Người nông dân làm kinh tế giỏi từ mô hình chăn nuôi hộ gia đình

Vĩ Thượng là một trong những xã động lực của huyện Quang Bình, trong những năm qua xã đã không ngừng vươn lên trong phát triển kinh tế – xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 18,2%, thu nhập bình quân đầu người đạt 17,8 triệu đồng/năm, đời...