Hotline: +84 243 869 1980

Tin tức chung

Xây dựng khẩu phần ăn không phosphates cho gia cầm

Cập nhật: 03/09/2022, 13:51:51

Diễm Uyên – HUPHAVETDiễm Uyên – HUPHAVETDiễm Uyên – HUPHAVETDiễm Uyên – HUPHAVET

Xây dựng khẩu phần ăn không phosphates cho gia cầm
Ngô là nguyên liệu quan trọng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ảnh: Morningchores

(Người Chăn Nuôi) - Giá phosphates đã tăng gấp 3 lần trong những tháng gần đây do chiến sự ở Ukraine, thiếu hụt phân bón, đại dịch COVID-19 và lạm phát. Một giải pháp thay thế là phosphates tự nhiên, nhưng điều này liệu có khả thi?

Nếu hỏi bất kỳ nhà cung cấp phosphates nào về việc thay thế phosphates tự nhiên có khả thi không, thì câu trả lời sẽ là “không”. Nhưng các nhà cung cấp phytase có thể sẽ đưa ra câu trả lời ngược lại. Mỗi nhà cung cấp đều có lý, tuy nhiên người chăn nuôi lại cần một câu trả lời rõ ràng hơn.

Thực tế, một số loại thức ăn có công thức không cần bổ sung phosphates vô cơ, trong khi số khác lại không thể thiếu thành phần này. Điều này tưởng chừng đơn giản, nhưng khó khăn nằm ở chỗ xác định được loại thức ăn cần và không cần bổ sung phosphates vô cơ. Do đó, việc cần làm trước tiên là kiểm tra nguyên liệu thô.

Thành phần giàu phytate phosphorus
Nói đến các thành phần thức ăn chăn nuôi (TĂCN) giàu phytase đính phosphorus (phytate phosphorus), không thể bỏ qua 3 loại ngũ cốc nổi bật gồm ngô, lúa mỳ và lúa mạch. Ngô là nguyên liệu TĂCN phổ biến nhất ở châu Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Lúa mỳ là thành phần cung cấp năng lượng chính cho vật nuôi tại châu Âu và hiện nay nguồn cung lúa mỳ đang thiếu hụt do chiến sự tại Ukraine. Trong khi đó lúa mạch cũng là thành phần thức ăn ngày càng được quan tâm hơn.

Ngoài 3 nguyên liệu thô nói trên, còn có 3 nguồn protein thực vật nổi bật khác gồm khô đậu, khô cải và khô dầu hướng dương. Khô đậu là nguồn cung protein chính cho gia cầm, heo trên toàn thế giới, trong khi khô cải là thành phần TĂCN quan trọng ở Bắc Âu và Canada (cải ngọt canola). Tuy nhiên, nguồn cung khô dầu hướng dương đang thiếu hụt với nguyên nhân tương tự lúa mỳ.

Khẩu phần ăn cơ bản từ ngô và khô đậu chứa 0,2 - 0,22% phytate phosphorus. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm đến phần phosphorus hữu dụng vì đây là chất nền mà enzyme phytase sử dụng để giải phóng phosphorus cho vật nuôi. Chúng ta có thể sử dụng các thành phần khác giàu phosphorus hơn, nhưng cần cân nhắc kỹ bởi liên quan đến phụ phẩm động vật. Hiện nay, phương pháp phổ biến nhất là tăng lượng enzyme phytase khi kết hợp với các thành phần giàu phytate phosphorus lên mức cao hơn enzyme phytase trong khẩu phần đậu tương - ngô cơ bản (khoảng 0,2%).

Lượng phytate phosphorus trong các loại ngũ cốc vẫn duy trì ở tỷ lệ 0,2%. Do đó, việc thay đổi ngũ cốc cũng không có tác dụng làm tăng phytate phosphorus hơn. Cần lưu ý, ngũ cốc chiếm 60 - 70% trong công thức cuối. Trong khi đó, các nguồn protein lại có sự khác biệt tương đối lớn. Khô dầu hướng dương cung cấp một lượng chất nền lớn nhất (phytate phosphorus) để tạo ra phytase liều cao. Tuy nhiên các nguồn protein chỉ chiếm tỷ lệ 20% trong công thức thức ăn. Mặc dù về lý thuyết, khô dầu hạt cải và hướng dương là các thành phần thức ăn khác nhau nhưng trên thực tế, sự khác biệt đó không đáng kể. Như đã đề cập, một khẩu phần ăn cơ bản với 70% ngũ cốc và 20% khô đậu chứa 0,21% phosphorus liên kết. Trong khi đó, khẩu phần ăn 20% khô cải hoặc khô dầu hướng dương lần lượt chứa 0,28% và 0,32% phytate phosphorus.

Giới hạn sinh học của phytase
Với khẩu phần ngô - khô đậu cơ bản, chỉ cần 1 liều phytase đầu tiên sẽ giải phóng khoảng 0,1% phosphorus liên kết, trong khi liều phytase thứ 2 sẽ giải phóng 0,05% và nâng tổng số phosphorus liên kết lên 0,15%.

Khi phytate phosphorus trong khẩu phần ăn đạt mức cao hơn (0,3%), thì bổ sung liều phytate thứ 3 sẽ tạo ra nhiều chất nền hơn để giải phóng nhiều phosphorus hơn. Đây là đề xuất thú vị, vì khi sử dụng một số thành phần nhất định (chủ yếu là cám của một số loại ngũ cốc), chúng ta có thể đạt 0,4% phytate phosphorus. Cố gắng giải phóng một lượng phosphorus như vậy có khả thi kinh tế hay không là vấn đề cần phải thảo luận với nhà cung cấp phytase, nhưng theo quan điểm sinh học, thì điều này chắc chắn khả thi.

Tuy nhiên, cần lưu ý không có bất cứ hệ thống nào đạt hiệu quả 100%. Vì vậy, hầu như không thể chuyển đổi tất cả phytate phosphorus thành phosphorus hữu hiệu, chưa kể nhiều vật nuôi không thể sử dụng một số loại phosphorus này.

Xác định lại nhu cầu phosphorus
Sau cùng, cần cân nhắc lượng phosphorus hữu hiệu, cộng với lượng phosphorus từ thực vật có đủ đáp ứng nhu cầu phosphorus cho gia cầm hay không. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn khả thi.

Thực tế, động vật còn non (gà công nghiệp) sẽ cần phytase liều cao cùng với chế độ ăn giàu phytate nếu khẩu phần đó được xây dựng theo công thức không chứa phosphates. Nếu không làm theo cách này, gia cầm sẽ bị thiếu hụt chất dinh dưỡng. Mặt khác, vật nuôi giai đoạn vỗ béo vẫn được đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng ngay cả khi được cho ăn bằng khẩu phần cơ bản ngô - khô đậu hoặc thậm chí khẩu phần không chứa phytase, tùy vào giai đoạn phát triển của vật nuôi đó.

Vì vậy, người chăn nuôi có thể xây dựng khẩu phần ăn cho gia cầm mà không cần sử dụng phosphates vô cơ nếu đáp ứng được nhu cầu thực sự của vật nuôi đối với phốt pho hữu hiệu. Do đó, cần chú trọng hơn trong việc xác định nhu cầu này với độ chính xác cao hơn nữa.

TS. Ioannis Mavromichalis
Ariston Nutrition Consulting International


Có thể bạn quan tâm

Một số kỹ thuật thú y trong chăn nuôi dê
Một số kỹ thuật thú y trong chăn nuôi dê
Một số kỹ thuật thú y trong chăn nuôi dê

(Người Chăn Nuôi) - Trong quá trình nuôi dê, thực hiện tốt các kỹ thuật thú y giúp hạn chế dịch bệnh, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.

Chăm sóc, nuôi dưỡng bê con theo mẹ
Chăm sóc, nuôi dưỡng bê con theo mẹ
Chăm sóc, nuôi dưỡng bê con theo mẹ

(Người Chăn Nuôi) - Bê sơ sinh thường có sức đề kháng kém, dễ nhiễm các mầm bệnh. Người nuôi cần lưu ý trong chăm sóc để tạo điều kiện tốt nhất cho bê sinh trưởng và phát triển.

Thu nhập khá từ nuôi dê Nam Phi
Thu nhập khá từ nuôi dê Nam Phi
Thu nhập khá từ nuôi dê Nam Phi

Từ 6 con dê giống ban đầu, trong vòng 4 năm, anh Nguyễn Văn Hoàng ở bon Đắk R'la, xã Đắk N'Drót (Đắk Mil, Đắk Nông) đã nhân giống thành công và phát triển đàn dê giống Boer (Nam Phi) lên hơn 100 con, đem lại nguồn thu khá cho...